trái
Đăng nhập
CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI WEBSITE CỦA NHÀ THƠ. LUẬT GIA. HOÀNG QUỐC HUY!

Từ khóa
Danh mục

Nghiên cứu thơ Song Thất Lục Bát
Lượt xem: 40

17-05-2015 18:26

Vài Nét Về Niêm Luật: 
Đây là thể thơ độc đáo của Việt Nam. Thể thơ 
Song Thất Lục Bát kết hợp uyển chuyển giữa loại thơ 7 
chữ và lục bát. Gồm nhiều đoạn, mỗi đoạn bắt đầu 
bằng hai câu 7 chữ, rồi đến câu 6 chữ xong đến câu 8 
chữ; cứ như thế mà tiếp tục ngắn dài tùy ý miễn sao là 
bội số của 4. Chẳng hạn 4, 8, 12, 16, 24, 32,... câụ 
QUY TẮC CHUNG: 
Có thể tóm lược niêm luật của hai đoạn kế nhau, mỗi 
đoạn 4 câu như sau : 

câu 1: x x t x b x T1 
câu 2: x x b x T1 x B1 
câu 3: x b x t x B1 
câu 4: x b x t x B1 x B2 
câu 5: x x t x B2 x T2 
câu 6: x x b x T2 x B3 
câu 7: x b x t x B3 
câu 8: x b x t x B3 x B4 

với: 
x = có thể là bằng hay trắc không bó buộc 
b = thanh bằng (ịẹ, không dấu hay dấu huyền) 
t = thanh trắc (ịẹ, hỏi, ngã, sắc, nặng) 
B = vần thanh bằng 
T = vần thanh trắc 

Trong 2 câu thất (7 chữ), trừ chữ đầu ra, 6 chữ còn lại 
theo quy tắc: 
"Nhất, tam, ngũ bất luận 
Nhị, tứ, lục phân minh" 
Như vậy, ta có thể thấy trong 2 câu 7 chữ, chỉ có chữ 
thứ 3, 5 và 7 cần theo đúng niêm luật. Trong câu 6 chữ, 
chỉ có chữ thứ 2, 4 và 6 cần theo đúng niêm luật. Trong 
câu 8 chữ, chỉ có chữ thứ 2, 4, 6 và 8 cần theo đúng niêm 
luật. Những chữ còn lại có thể chọn thanh bằng hay trắc 
tùy ý miễn sao đọc lên âm điệu nghe xuôi tai là được. 
Khi chữ thứ 3 của 2 câu thất bị "biến thể" (nghĩa là 
không tuân theo quy tắc bằng trắc nêu ở trên), thường 2 
câu thất đó là 2 câu đối như trong 8 câu đầu trong bài 
Chinh Phụ Ngâm (xem thí dụ 3). Nhưng cũng có trường hợp 
ngoại lệ mà vẫn khá hay, chẳng hạn như 8 câu mở đầu của 
Cung Oán Ngâm Khúc (xem thí dụ 2). Dù vậy, nếu giữ đúng 
niêm luật, âm điệu của bài Song Thất Lục Bát sẽ du dương 
hơn. 
Giữ đúng niêm là tuân theo đúng theo thanh (bằng hay trắc) 
như đã chú thích trong quy tắc ở trên. 
Giữ đúng luật là chọn chữ đúng vần, hợp với chữ 
tương ứng ở câu trên hoặc câu dưới như đã chú thích 
trong quy tắc ở trên. 
CÁCH GIEO VẦN: 
Theo quy tắc ghi ở trên, ta có thể dễ dàng thấy chữ cuối 
(T1) thuộc câu 7 ở trên vần với chữ thứ 5 (T1) thuộc câu 
7 kế theo, đều là vần trắc. Chữ cuối (B1) thuộc câu 7 
lại vần với chữ cuối (B1) thuộc câu 6 kế tiếp, đều là 
vần bằng. Chữ cuối (B1) thuộc câu 6 lại vần với chữ 
thứ 6 (B1) thuộc câu 8 và là vần bằng. Chữ cuối (B2) 
thuộc câu 8 lại vần với chữ thứ 5 (B2) thuộc câu 7 ở 
đoạn kế tiếp, và cũng là vần bằng. 
Tương tự, chữ cuối (T2) thuộc câu 7 lại vần với chữ 
thứ 5 (T2) thuộc câu 7 kế theo, là vần trắc. Chữ cuối 
(B3) thuộc câu 7 lại vần với chữ cuối (B3) thuộc câu 6 
kế theo, và là vần bằng. Chữ cuối (B3) thuộc câu 6 lại 
vần với chữ thứ 6 (B3) thuộc câu 8 kế tiếp, và là vần 
bằng. Chữ cuối (B4) thuộc câu 8 sẽ vần với chữ thứ 5 
(B4) thuộc câu 7 ở đoạn kế tiếp theo (nếu có). 
Cứ như thế, cách gieo vần chéo này tạo nên sự kết hợp 
uyển chuyển về tiết tấu giữa cặp câu 7 (song thất) với 
cặp câu 6, 8 (lục bát). Và nối kết các đoạn 4 câu song 
thất lục bát lại với nhau để tạo nên nhịp điệu độc 
đáo của toàn bài thơ viết theo thể loại nàỵ 
Một điểm nhỏ xin lưu ý: trong câu 8 chữ, tuy chữ thứ 6 và 
chữ thứ 8 cùng là vần thanh bằng, nhưng nếu chữ thứ 6 
là không dấu thì chữ thứ 8 nên là dấu huyền, hay ngược 
lại, để cho âm điệu của bài thơ được trầm bổng hơn. 
Xin xem các thí dụ bên dưới để thấy rõ điểm nàỵ 
CÁCH ĐỐI: 
Không bắt buộc như trong thơ Đường luật, nhưng có thể 
áp dụng trong cặp câu 7 chữ. Câu 7 ở trên đối với câu 7 
ở dướị 
VÀI THÍ DỤ MINH HỌA: 
Để dễ hiểu, chúng ta có thể thử phân tích niêm luật 
của một vài đoạn thơ bên dưới sẽ thấy rõ hơn những 
điều đã giải thích ở trên. 

Thí dụ 1: 
Tiết Phụ Ngâm 
Thiếp có chồng, chàng ĐÀ hay BIẾT, 
Đôi minh châu tha THIẾT còn TRAỌ 
Nghĩ tình vương vấn khít KHAO, 
Ngọc này thiếp buộc áo ĐÀO thắm TƯƠỊ 
Nhà thiếp ở lầu NGOÀI ngự UYỂN, 
Chồng thiếp làm lính ĐIỆN Minh QUANG. 
Biết chàng lòng sáng như TRĂNG, 
Thờ chồng, thiếp nguyện đá VÀNG thủy CHUNG. 
Trả minh châu, lệ đôi DÒNG, 
Hận không lúc thiếp chưa CHỒNG gặp NHAỤ 
Trần Trọng San dịch
Chú thích: 
* BIẾt vần với THIẾT (vần trắc # T1) 
* TRAO vần với KHAO và ĐÀO (vần bằng # B1) 
* TƯƠI vần với NGOÀI (vần bằng # B2) 
* UYỂN vần với ĐIỆN (vần trắc # T2) 
* QUANG vần với TRĂNG và VÀNG (vần bằng # B3) 
* CHUNG vần với DÒNG và CHỒNG (vần bằng # B4) 
Chú ý, trong bài thơ này, 2 câu cuối cùng là lục bát. Bài 
thơ này là một loại biến thể của Song Thất Lục Bát vì 
không theo đúng quy tắc nêu ở trên. 

Thí dụ 2: 
Trải vách quế gió vàng hiu HẮT, 
Mảnh vũ y lạnh NGẮT như ĐỒNG. 
Oán chi những khách tiêu PHÒNG, 
Mà xui phận bạc nằm TRONG má ĐÀỌ 
Duyên đã may cớ SAO lại RỦỊ 
Nghĩ nguồn cơn dở DÓI sao ĐANG. 
Vì đâu nên nỗi dở DANG ? 
Nghĩ mình mình lại nên THƯƠNG nỗi MÌNH. 
Trộm nhớ thủa gây HÌNH tạo HÓA 
Vẻ phù dung một ĐÓA khoe TƯƠI 
Nhụy hoa chưa mỉm miệng CƯỜI 
Gấm nàng Ban đã nhạt MÙI thu DUNG 
(trích Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Hầu Ngô Gia Thiều) 
Chú thích: 
* HẮT vần với NGẮT (vần trắc # T1) 
* ĐỒNG vần với PHÒNG và TRONG (vần bằng # B1) 
* ĐÀO vần với SAO (vần bằng # B2) 
* RỦI vần với DÓI (vần trắc # T2) 
* ĐANG vần với DANG và THƯƠNG (vần bằng # B3) 
* MÌNH vần với HÌNH (vần bằng # B4) 
* HÓA vần với ĐÓA (vần trắc # T3) 
* TƯƠI vần với CƯỜI và MÙI (vần bằng # B5) 

Thí dụ 3: 
Thuở trời đất nổi CƠN gió BỤI, 
Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN. 
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN, 
Vì ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀỴ 
Trống Trường Thành lung LAY bóng NGUYỆT, 
Khói Cam Tuyền mờ MỊT thức MÂỴ 
Chín tầng gươm báu trao TAY, 
Nửa đêm truyền hịch định NGÀY xuất CHINH. 
(trích Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm) 

Thí dụ 4: 
Chìm đáy nước cá LỜ đờ LẶN 
Lửng da trời nhạn NGẨN ngơ SA 
Hương trời đắm nguyệt say HOA 
Tây Thi mất vía, Hằng NGA giật MÌNH 
Câu cẩm tú đàn ANH họ LÝ 
Nét đan thanh bậc CHỊ chàng VƯƠNG 
Cờ tiên rượu thánh ai ĐANG 
Lưu Linh Đế Thích là LÀNG tri ÂM 
Cầm điếm nguyệt, phỏng TẦM Tư Mã 
Địch lầu thu, đọ GÃ Tiêu LANG 
Dẫu mà tay múa, miệng XANG 
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê THƯỜNG trong TRĂNG 
(trích Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Hầu Ngô Gia Thiều)

Thí dụ 5: 
Khi Chàng Còn Chưa 
Nhìn lũ trẻ vòng vòng nhạc ngựa 
Nghe nhạc mưa trăn trở đất mềm 
Theo đôi cánh bướm bay lên 
Tà dương vạt nắng phai trên cuối chiều 
Nhảy chậm lại em yêu chớ vội 
Đời không dài nhạc hội còn dài 
Mỗi ngày ta vội như bay 
Thăm nhau chiếu lệ chẳng hay đáp lời 
Ngày vất vả nghỉ ngơi thoải mái 
Nhạc trăm dòng réo mãi trong tâm 
Ta quên bẵng bạn bè thân 
Coi như họ đã vãng phần xanh rêu 
Nhảy chậm lại em yêu chớ vội 
Đời không dài, nhạc hội chưa vơi 
Khi ta hối hả tới nơi 
Kể như phân nửa cuộc vui đã tàn 
Khi vội vã lo toan quá sức 
Kể như ta vội vứt gói quà 
Đến từ tình nghĩa thiết tha 
Vứt khi chưa mở xót xa cách gì 
Đời đâu phải cuộc thi nước rút 
Hãy khoan thai hưởng chút thư nhàn 
Lắng nghe câu hát điệu đàn 
Trước khi nhạc rứt , khi chàng còn chưạ 
Hà Huyền Chi 
(Phóng chuyển từ bài thơ Slow Dance, của tác giả vô danh) 

Thí dụ 6: 
Tự Tình Thán 
Truyện trần thế trớ trêu, trắc trở 
Ta thán than từ thưở trẻ thơ 
Thoạt tiên, tấm tức tu tu 
Tự tiên tri trước trăm thu tội tình 
Trong tiềm thức, thật tình trong trắng 
Tính Trời trao: thẳng thắn, tận tâm 
Tiền trình tưởng thẳng tắp tăm 
Tiếc thay, tích tắc tan tành thảm thê 
Thân tiều tụy, tim tê tái thiệt 
Thảm thương thêm, thân thuộc thanh trừ 
Tiền tài: tam tộc "tiếp thu" 
Thế thời thời thế tạ từ tình thâm 
Thoạt trông thấy, thâm tâm tơ tưởng 
Từng tháng trôi, tăng trưởng từ từ 
Tình thầm trùm trọn tâm tư 
Tương tư thấm thoát tam thu tính tròn 
Trăng tàn tiếp trăng tròn, trăng tận 
Thổn thức thầm, thơ thẩn trông trăng 
Tình thầm theo tháng thêm tăng 
Tâm tình tơi tả, thăng trầm. Tội thay !! 
Tỏ tình thẳng tới tai thì thẹn . 
Thôi thế thời: tấp tểnh tìm từ 
Trải trang tình thắm thành thơ 
Từ từ tỏ thực tâm tư tinh tường ...... 
Thủy tiểu thư thẳng thừng từ tạ 
Trái tim ta tơi tả, thảm thương 
Tam thu tận tụy tình trường 
Tỉnh thời tự thấy tang thương tuôn trào .... 
Trái tim ta trót trao Thu Thủy 
Tình tan tành, thấy tủi thân ta 
Tình, tiền tan tựa trăng tà 
Trách Trời táo tợn trêu ta tận tình 
Thôi trót thế thất tình tức tưởi 
Ta trốn trần, tìm tới thiền tu 
Tội tình tích trữ thiên thu 
Tạm thời ta trả từ từ thế thôi .... 
Truyện tình ta thế thời tận tuyệt 
Tựa truyện tình tiểu thuyết tầm thường 
Thực tình thì thật thảm thương 
Thở than tự thán tình trường thiên thu ..... 
Tứ Diễm - Dec 13, 1995 
( Trang trải tâm tình thay "T tam thừa" )

 
 

©2016 Bản quyền thuộc về  天佑风水中心

Website này được thiết kế để kính tặng Thầy: Nhà thơ. Luật gia. Hoàng Quốc Huy (徐国 辉) -HỘI GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TP.HCM

Chủ tịch Hội Đồng Sáng lập Diễn Đàn Nghiên Cứu Nghệ Thuật Và Văn Hóa Việt Nam

Ủy viên Ban CH Hội Người Hoa Tp-HCM

 Thiết kế & Quản trị: Trương Mẫn Vy (张敏 薇) -  Cung Hữu Nghị Việt - Trung

188, đường Lê Quang Đạo, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Thư từ liên lạc, bài vở xin gửi về E-Mail: Email: nhathohoanghuy@gmail.com; quochuy@militaryvn.ml